Thời gian gần đây, có nhiều thông tin phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc "thương hiệu" gạo "ST25" được các doanh nghiệp của Hoa Kỳ nộp đơn đăng ký tại Hoa Kỳ (và cả Việt Nam) dẫn đến nguy cơ mất thương hiệu và doanh nghiệp Việt Nam không xuất khẩu được loại gạo này vào thị trường Hoa Kỳ. Để hiểu đúng về bản chất của vấn đề, Cục Sở hữu trí tuệ cung cấp thông tin liên quan như sau:
1. Về việc bảo hộ giống lúa ST25
a) Về tên giống lúa ST25
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT), để đăng ký bảo hộ giống cây trồng, người đăng ký phải đề xuất một tên phù hợp cho giống cây trồng với cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng và tên đó phải trùng với tên đã đăng ký bảo hộ ở bất kỳ quốc gia nào có ký kết với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thỏa thuận về bảo hộ giống cây trồng (Khoản 1 Điều 163 Luật SHTT).
Trong trường hợp cụ thể này, khi nộp hồ sơ đăng ký, giống lúa được lấy tên là ST25. Như chúng ta đã biết, giống lúa có tên ST25 này đã được cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng số 21.VN.2020 theo Quyết định số 45/QĐ-TT-VPBH ngày 06/03/2020 của Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, theo đó, chủ Bằng bảo hộ của giống lúa ST25 là Doanh nghiệp tư nhân Hồ Quang Trí và tác giả giống lúa ST25 là các ông/bà Hồ Quang Cua, Trần Tấn Phương, Nguyễn Thị Thu Hương.
Một khi giống lúa đã được đặt tên phù hợp và được bảo hộ, thì bất kỳ tổ chức, cá nhân nào chào bán hoặc đưa ra thị trường vật liệu nhân giống của giống lúa này đều phải sử dụng tên giống như tên đã ghi trong bằng bảo hộ, kể cả sau khi kết thúc thời hạn bảo hộ (khoản 4 Điều 163 Luật SHTT).
b) Về quyền của chủ bằng bảo hộ giống lúa ST25
Theo quy định tại Điều 186 Luật SHTT, chủ bằng bảo hộ giống cây trồng có quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng các quyền sau đây liên quan đến vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ: sản xuất hoặc nhân giống; chế biến nhằm mục đích nhân giống; chào hàng; bán hoặc thực hiện các hoạt động tiếp cận thị trường khác; xuất khẩu; v.v.
Chủ bằng bảo hộ giống cây trồng có quyền ngăn cấm các hành vi bị coi là hành vi xâm phạm quyền của chủ bằng bảo hộ, trong đó có hành vi khai thác, sử dụng các quyền của chủ bằng bảo hộ mà không được phép của chủ bằng bảo hộ.
Như vậy, có thể hiểu rằng, việc bảo hộ của nhà nước theo Bằng bảo hộ giống cây trồng là đối với bản thân lúa giống. Chủ bằng có quyền tự mình hoặc cho phép người khác thực hiện các hành vi nêu trên đối với vật liệu nhân giống (trong trường hợp cụ thể này là hạt lúa giống) chứ không phải là gạo (được coi là sản phẩm chế biến sau thu hoạch của lúa). Bên cạnh đó, một điểm cần lưu ý là quyền cấp cho chủ bằng bảo hộ số 21.VN.2020 chỉ có hiệu lực ở Việt Nam (Khoản 1 Điều 169 Luật SHTT).
Ngoài ra, với quy định về việc phải sử dụng tên giống cây trồng như tên đã ghi trong bằng bảo hộ như quy định tại khoản 4 Điều 163 Luật SHTT đã được đề cập ở trên, cần hiểu rằng việc sử dụng đúng tên giống cây trồng khi đưa sản phẩm (trường hợp cụ thể này là lúa giống ST25) ra thị trường là một nghĩa vụ bắt buộc không chỉ trong thời hạn bảo hộ mà kể cả sau khi giống lúa này đã hết thời hạn bảo hộ.
2. Về việc bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm gạo nói chung và gạo ST25 nói riêng
Gạo là sản phẩm chế biến từ sản phẩm sau thu hoạch (thóc) từ cây lúa. Trong trường hợp doanh nghiệp tư nhân Hồ Quang Trí bán giống lúa ST25 cho nông dân trồng thì sau khi thu hoạch lúa, xay xát ra gạo thương phẩm đều phải sử dụng tên là “gạo ST25”. Các doanh nghiệp thu mua thóc là sản phẩm thu hoạch từ lúa được gieo trồng từ hạt lúa giống ST25 để xay xát và sau đó bán gạo ra thị trường thì cũng đều phải gọi đó là gạo ST25. Điều đó có nghĩa là ST25 là tên của loại gạo là sản phẩm chế biến từ thóc thu hoạch được từ giống lúa ST25.
Vì lý do là tên gọi chung của một loại sản phẩm nên bất kỳ ai kinh doanh sản phẩm (gạo) này cũng đều phải sử dụng đúng tên gọi đó nên điểm b, khoản 2 Điều 74 Luật SHTT đã quy định tên gọi thông thường của hàng hóa bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến sẽ bị coi là không có khả năng phân biệt và không được đăng ký làm nhãn hiệu. Điều đó có nghĩa là trong trường hợp cụ thể này, bất kỳ ai, kể cả doanh nghiệp tư nhân Hồ Quang Trí cũng không thể được bảo hộ độc quyền dấu hiệu "ST25" cho sản phẩm gạo.
Vậy trong trường hợp nhiều doanh nghiệp cùng đưa ra thị trường sản phẩm gạo ST25 thì đâu là dấu hiệu phân biệt để người tiêu dùng nhận biết được nguồn gốc thương mại của sản phẩm gạo mà mình mua? Câu trả lời là các doanh nghiệp phải đưa sản phẩm gạo ST25 ra thị trường dưới nhãn hiệu của riêng mình.
Đó là lý do chúng ta có thể mua được gạo ST25 mang nhãn hiệu “Bảo Minh” hoặc gạo ST25 của các doanh nghiệp khác với các nhãn hiệu khác nhau, v.v.
3. Về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu gạo ST25 tại thị trường nước ngoài nói chung và Hoa Kỳ nói riêng
Theo quy định của pháp luật các nước, trong đó có Hoa Kỳ, tên gọi chung của sản phẩm/dịch vụ sẽ không được bảo hộ làm nhãn hiệu.
Đối với Hoa Kỳ, theo Hướng dẫn thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu của Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO), thẩm định viên sẽ từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu đối với tên giống cây trồng. Điều này có thể thấy rõ trong thông báo dự định từ chối ngày 20.11.2020 của USPTO đối với nhãn hiệu "VIETNAM'S ST25 RICE, DAC SAN SOC TRANG” theo đơn đăng ký số 90151727 nộp ngày 01.9.2020 của Công ty Transword Foods, Inc. Theo đó, ST25 là tên gọi chung của một loại giống cây trồng (lúa), và không thể được đăng ký dưới danh nghĩa một nhãn hiệu theo quy định tại mục 1202.12 của Quy chế thẩm định nhãn hiệu.
Tóm lại, dấu hiệu "ST25" với vai trò là tên của giống cây trồng nên không thể được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu độc quyền tại Việt Nam cũng như Hoa Kỳ cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cho các sản phẩm liên quan đến lúa, gạo. Nếu trên một nhãn hiệu nào đó được cấp văn bằng bảo hộ cho sản phẩm liên quan đến lúa, gạo mà có xuất hiện dấu hiệu ST25 kết hợp cùng với các dấu hiệu khác tạo thành một tổng thể nhãn hiệu thì dấu hiệu ST25 cũng sẽ bị loại trừ khỏi phạm vi bảo hộ. Trong trường hợp vì lý do nào đó, dấu hiệu ST25 được đăng ký bảo hộ độc quyền nhãn hiệu cho sản phẩm gạo thì các tổ chức, cá nhân liên quan đều có thể phản đối đơn đăng ký này trên cơ sở dấu hiệu “ST25” là tên giống cây trồng và tên này không thể thuộc độc quyền của tổ chức, cá nhân nào.
4. Một số vấn đề về SHTT doanh nghiệp cần lưu ý khi muốn xuất khẩu hàng ra thị trường nước ngoài
Mỗi một quốc gia đều có một hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền SHTT mà các nhà xuất khẩu tiềm năng cần phải tìm hiểu rõ. Tốt hơn cả là các nhà xuất khẩu tiềm năng cần tìm đến các chuyên gia tư vấn trong lĩnh vực này trước khi xuất khẩu sản phẩm hoặc dịch vụ của mình.
Khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu, một trong số những yếu tố quan trọng nhất là phải hiểu được các quy định về bảo hộ quyền SHTT ở thị trường xuất khẩu, bởi trước khi xuất khẩu các doanh nghiệp ít nhất phải bảo đảm rằng sản phẩm của mình tuân thủ các quy định về bảo hộ quyền SHTT ở thị trường xuất khẩu và không xâm phạm quyền SHTT của người khác trên thị trường đó.
Mỗi một sản phẩm, dịch vụ có thể được bảo hộ dưới nhiều hình thức khác nhau, điều quan trọng là doanh nghiệp cần lựa chọn cách thức để bảo hộ một cách hiệu quả nhất để tránh việc các đối thủ cạnh tranh sao chép hoặc làm giả sản phẩm hoặc thậm chí cấm ngược lại việc mình sử dụng sản phẩm của chính mình.
Địa chỉ tốt nhất để doanh nghiệp bắt đầu tìm kiếm thông tin về các quy định và thủ tục bảo hộ quyền SHTT là (các) cơ quan SHTT của nước đó (ví dụ như tại Mỹ là Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ (uspto.gov); Cơ quan SHTT Châu Âu (euipo.europa.eu) v.v.). Ngoài ra doanh nghiệp có thể nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước cũng như các cơ sở dữ liệu toàn cầu về nhãn hiệu, sáng chế v.v. trên trang web của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO: http://www.wipo.int). Trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều thị trường xuất khẩu tiềm năng và cần phải thực hiện việc đăng ký bảo hộ quyền SHTT ở nhiều quốc gia khác nhau thì cần cân nhắc đến các hệ thống đăng ký quốc tế (ví dụ hệ thống PCT đối với sáng chế, hệ thống Madrid đối với nhãn hiệu hay hệ thống La Hay (the Hague) đối với kiểu dáng công nghiệp) để tiết kiệm được thời gian và chi phí./.
Nguồn: Cục Sở Hữu Trí Tuệ